Đòi lại Quảng Nguyên – Phần IV: Tống-Việt trước giờ giao tranh

Mang quân càn quét rồi để lại một vùng Ung Châu tử địa, Đại Việt rút quân về nước. Nhà Tống tiếng là “Thiên Triều” mà để bọn “Nam Man” vỗ mặt. Cục tức này vua Tống Thần Tông cùng tể tướng Vương An Thạch chẳng thể nào nuốt trôi. Hẳn là phải đánh Giao Chỉ một trận không tha.

I. Nhà Tống chuẩn bị lực lượng

1.1. Nhà Tống chọn tổng chỉ huy

Ngay từ khi Lý Thường Kiệt còn vây hãm Ung Châu (cuộc vây hãm từ 18/1/1076 đến 1/3/1076), ngày 03/02/1076 vua Tống đã cấp tốc thành lập “mặt trận” chiêu thảo sứ định phản công nhanh chóng Đại Việt, cứu lấy Ung Châu. Đứng đầu chiêu thảo sứ là Triệu Tiết, phó sứ là Lý Hiến. Tuy nhiên chưa kịp làm gì thì Ung Châu đã thất thủ, đành phải chuyển sang kế hoạch dài hơi hơn.

Triệu Tiết là một võ tướng, am hiểu việc nhà binh, còn Lý Hiến là hoạn quan. Hai người làm việc không hợp, nên ghét nhau ra mặt. Vương An Thạch (Tể tướng) cũng nói thêm vào rằng “hoạn quan mà coi việc quân, xét đời Đường là điều xấu tệ cho đại sự, không nên theo”, vua Tống bèn bãi Lý Hiến.

Sau khi bãi Lý Hiến, đến ngày 9/3/1076 thì vua Tống phong Quách Quỳ – một chiến tường dày dặn kinh nghiệm ở mạn Bắc – làm chính sứ, còn Triệu Tiết làm Phó sứ, cùng lo việc đánh dẹp Giao Chỉ. Nhưng đứng sau 2 vị chính-phó sứ này lại là hai phe phái cực lực đả kích nhau. Đứng sau Triệu Tiết là phe cải cách của Tể tướng Vương An Thạch, còn đứng sau Quách Quỳ là phe thủ cựu của Ngô Sung, Tô Thức, Tư Mã Quang… Trong công việc, Quỳ và Tiết bàn luận phần nhiều không hợp, Quỳ bác đi phần lớn những đề nghị của Tiết. Bọn Hoạn quan hận Triệu Tiết bãi chức Lý Hiến [cũng là hoạn quan], nên xúi giục gây nên sự tranh cãi bất hòa.

Sự bất hòa giữa hai chính – phó tướng căng thẳng đên mức những việc trong quân, Triệu Tiết không được tham gia thậm chí cũng không được biết, nên vua Tống đành phải phân chia rõ nhiệm vụ từng người Phó tổng quản Triệu Tiết đặc trách chiêu phủ (hậu cần, lương thảo…), Quách Qùy đặc trách đánh dẹp chiêu thảo (chỉ huy quân sự). Tuy kìm chế được sự hằn học nhau giữa 2 ông lớn nhưng thành ra việc ai nấy làm, không có sự phối hợp.

Đỉnh điểm của sự đấu đá nội bộ là đến tháng 10/1076, vì sự tình cuộc chiến có phần bất lợi ở An Nam, đến chính Vương An Thạch (người kịch lực ủng hộ đánh Đại Việt) phải từ chức, vua lấy Ngô Sung (người phản đối đánh Đại Việt) thay.

1.2. Chuẩn bị bộ binh

Nhà Tống chuẩn bị lực lượng khoảng 12 vạn quân bộ do Quách Quỳ làm tổng chỉ huy,

–        Quân tinh nhuệ gồm kỵ binh, bộ binh và các tướng lĩnh thiện chiến do Quách Quỳ mang từ phương Bắc theo;

–        Tân binh địa phương lấy từ vùng Lưỡng Quảng, Phúc Kiến;

–        Quân bại trận tại Ung Châu (được ban miễn tội, dùng lại);

–        Tội phạm (lưu đày) có sức khỏe;

–        Ngựa chiến khoảng 1 vạn.

Bộ binh chuẩn bị đến tháng giêng năm 1077 mới xong

1.3. Chuẩn bị thủy quân

Nhà Tống có 2 luồng ý kiến về kế sách dùng thủy quân để phối hợp với bộ binh.

Dương Tùng Tiên bày mưu sử dụng thủy quân bí mật vượt biển hợp binh với Chiêm Thành để tấn công bất ngờ từ phía nam Đại Việt, cùng lúc bộ Binh của Quách Quỳ tấn công từ phía bắc, 2 mũi trước sau giáp công. Kế này khá hiểm nhưng nếu Chiêm Thành không hợp sức thì nguy to, lại dịp tháng 9 (âm lịch) đến tháng chạp dễ có bão, nên nhà Tống bác kế ấy đi

Kế của Tô Tử Nguyên là sử dụng thủy binh tập kết ở Khâm-Liêm rồi cùng tiến với bộ binh, 2 mũi tiến công hợp với nhau, dùng thuyền chiến chở bộ binh qua sông, tiến thẳng Thăng Long. Kế này hợp tình hợp lý nên được dùng theo. Vì nhà Tống hiểu rõ địa hình Đại Việt nhiều sông to cắt ngang, không có thuyền đưa quân qua sông thì khó mà tiến đến Thăng Long. Tuy nhiên, cái nhà Tống không lường hết được là thủy quân Đại Việt rất mạnh, muốn dùng được kế này thật là khó lắm vậy.

1.4. Chuẩn bị hậu cần và dân phu

Về lương thực

Như Triệu Tiết tính toán, nếu số quân 8 vạn, hành quân trong 8 tháng, phải cần đến 800.000 cân lương thảo, như vậy với quân số nhiều hơn, nhu cầu ắt phải lớn hơn.

Lương thảo được quân Tống tập kết ở trại Vĩnh Bình (vùng Bằng Tường ngày nay).

Can hệ là thế nhưng đến giữa năm 1076 đường vận lương cũng chưa thông, do sông Ung trước bị quân Đại Việt đổ đá lấp mất gần hết. Đến tận tháng 10 [11/11/1076] số lượng cỏ và lương thực vẫn chưa đủ.

Về dân phu

Ban đầu, theo tính toán của Chuyển vận sứ Quảng Tây Lý Bình Nhất, dân phu phục vụ cần hơn 40 vạn người. Sau Quách quỳ tính toán lại, với 10 vạn quân, 3 nghìn ngựa, 1 tháng lương thực cần 20 vạn dân phu. Đây quả là con số lớn. Vì trong Trường Biên có chép, tính 9 huyện vùng Quế Châu, nam giới các loại mới có thể huy động (cả người chưa đủ tuổi lao động) với được 9 vạn 1 ngàn 200.

Đông đảo như thế nên khó mà gom cho đủ dân phu, đến tận 14/1/1077, sát ngày tiến quân, Ty Hành doanh Ung Châu cho biết phu vận lương không đủ.

Về y tế

Vua Tống biết phương Nam lam chướng, dễ bệnh nên cũng đặc biệt quan yêu cầu chế 57 bài thuốc trị lam chướng, đóng thành gói, mang theo quân. Tuy nhiên qua vùng Ngũ Lĩnh xuống phương Nam (còn chưa qua đất Tống), quân lính và dân phu ốm chết nhiều, vua Tống lại yêu cầu các quân chớ ăn đồ ăn sống, đồ ăn lạnh, nghiêm cấm uống rượu. Vua Tống còn dùng cả biện pháp tâm linh, cầu thần Nam nhạc, lập đàn cầu phúc để mong quân lính ít bệnh.

Ấy vậy mà quân lính, dân phu vẫn chết nhiều, sách Trường Biên ghi nhận vào thượng tuần tháng 9, bệnh chết gần 4,5 ngàn người.

Quân chưa đi khỏi biên giới mà đã chết bệnh đông như thế, liệu rằng xuống dưới vùng Đại Việt, lam chướng rất độc, thì còn đáng ngại đến mức nào?

Nhận định

Theo đánh giá cá nhân, vấn đề quân lực nhà Tống có 4 nhược điểm chí mạng:

  • Một là: Quân tuy đông, nhưng ngoại trừ quân tinh nhuệ, số còn lại đều là chuẩn bị gấp gáp, thành phần ô hợp, thời gian luyện binh ngắn, chưa đủ bản lĩnh chiến trường
  • Hai là: Quân chủ lực của Quách Quỳ tuy thiện chiến, nhưng giỏi về kỵ binh và tác chiến đồng bằng. Khi xuống Đại Việt, trải qua trăm dặm đường rừng, lại sông ngòi chằng chịt, kỵ binh không thể phát huy tác dụng.
  • Ba là: Thủy quân Tống nếu không thắng được thủy quân Đại Việt thì không thể đưa quân chủ lực qua sông lớn để tiến đến Thăng Long. Nên nhớ, 2 lần trước đó người phương Bắc đều thua đau trên mặt trận thủy quân (nhà Nam Hán thua Ngô Vương Quyền năm 938 và 981 chính nhà Tống thua Lê Đại Hành trên sông Bạch Đằng)
  • Bốn là: Sự bất đồng nội bộ. Trong 1 cuộc chiến cần huy động các cấp chính trị trong Quốc gia, mà 2 vị trí quan trọng nhất là Tổng chỉ huy cuộc chiến và Tể tướng đều có sự đổi ngôi.

Chuyện chi tiết sẽ kể về phần sau, nhưng đọc đến đây ắt hẳn quý vị sẽ cơ hồ thấy rằng, sự thất bại đã hiện tiền ngay từ lúc bắt đầu vậy.

II. Đại Việt chuẩn bị lực lượng

2.1. Phòng bị phương Nam

Trong sách Trường Biên cũng ghi lại sự kiện: “Ngày Ất Sửu 12 tháng 9 năm Hy Ninh thứ 9 [12/10/1076]. Chiêm Thành xin tình nguyện dấy binh trợ giúp thảo phạt Giao Chỉ”, có lẽ vì thế mà có sự việc nhà Tống định hợp sức với Chiêm Thành để 2 mặt giáp công Đại Việt.

Hiểu rõ mối nguy hiểm này nhất chính là Đại Việt, nên vào khoảng khoảng tháng 9/1076 Lý Thường Kiệt dẫn quân đi đánh Chiêm Thành. Theo ĐVSKTT, chuyến hành quân này không thắng, nhưng Lý Thường Kiệt đã vẽ lại địa hình sông núi của châu Bố Chính, Đại Lý, Ma Linh, chiêu mộ dân chúng đến ở.

Theo ý kiến cá nhân, chuyến “công tác” của Lý Thường Kiệt không nhằm đánh bại Chiêm Thành, mà việc chính là đe dọa và sắp đặt phòng ngự quân sự ở phương nam. Vì thời gian chuẩn bị kháng Tống đang gấp rút, mà binh lực cũng cần bảo tồn, nên việc “thị uy” và “thủ thế” là thượng sách hơn cả.

Lý Thường Kiệt

2.2. Về kế sách kháng Tống

Để ngăn chặn bộ – kỵ binh chủ lực của nhà Tống tiến đến Thăng Long, Lý Thường Kiệt bày một hệ thống phòng ngự đa lớp, kéo dài từ biên giới, bờ biển đến trước vùng đồng bằng gần Thăng Long gồm:

  • Lớp phòng thủ phía Bắc (quân địa phương), có chức năng ngăn cản đà tiến quân, tiêu hao sinh lực địch và du kích tập hậu. Lực lượng này do các tù tưởng người dân tộc thiểu số chỉ huy, kéo dài từ Quảng Nguyên (Cao Bằng) đến Tô Mậu (Quảng Ninh). Trong lớp phòng ngự này, lực lượng do phò mã Thân Cảnh Phúc (thủ lĩnh vùng Lạng Sơn) chỉ huy là can hệ hơn cả, do địa bàn nằm dọc trên đường hành quân của Quách Quỳ
  • Lớp phòng thủ phía Đông (thủy binh) do Lý Kế Nguyên chỉ huy, đóng tại vùng Lục Đâu giang – Vạn Kiếp (Phả Lại), có chức năng chặn đường tiến thủy binh Tống vào hợp quân với Quách Quỳ.
  • Lớp phòng thủ chính do Lý Thường Kiệt chỉ huy, đặt tại vùng sông Cầu (cách Thăng Long khoảng 40-50km), ngăn chặn quân Tống tiến đến vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Về lớp phòng thủ “quyết định” trên sông Cầu, hãy cùng phân tích về địa hình Đại Việt để hiểu thêm tại sao Lý Thường Kiệt lại chọn nơi này.

Như đã phân tích ở phần 3, đường di chuyển của quân Tống xuống phía Nam tiện nhất là từ trại Vĩnh Bình (Bằng Tường – Trung Quốc ngày nay) đi qua Lạng Sơn, vượt được sông Cầu là vùng đồng bằng rộng lớn, Thăng Long sẽ mở toang trước mặt. Đường này, tôi cơ hồ gần như quốc lộ 1A từ cửa khẩu Hữu Nghị, qua Lạng Sơn về Bắc Giang, qua vùng sông Như Nguyệt.

Tổng quan địa hình Đại Việt

Nếu bật google map, zoom nhỏ lại để bao quát miền Bắc Việt Nam hiện nay, chỉ tính biên giới Việt – Trung đoạn từ Cao Bằng đến Quảng Ninh (từ Cao Bằng về phía Tây là biên giới giữa Đại Việt và Đại Lý) xuôi xuống Thăng Long (Hà Nội), phía Tây bị dãy núi Tam Đảo xẻ ngang, phía bên phải thì bị dãy Yên Tử chắn từ vùng Bắc Giang đến tận Biển Đông, ở giữa 2 dãy núi có khoảng 60km từ vùng Đa Phúc đến sông Lục Đầu (đường chim bay) là đất bằng có thể đi lại, nhưng đoạn này bị sông Cầu cắt ngang. Trong đoạn ấy chỉ có vùng Như Nguyệt đến núi Nham Biền là có bến, có đường qua sông .

Vùng Như Nguyệt

Về mặt dường thủy, quân Tống muốn tới hội quân cùng quân chủ lực, nhất định phải đi qua sông Bạch Đằng, tới bến Lục Đầu, rồi vào sông Cầu. Vùng Lục Đầu ngay sát vùng Như Nguyệt, lại rộng rãi có thể đặt được lực lượng thủy quân lớn, sông Bạch Đằng dễ phòng thủ, nơi đây năm 981 Lê Đại Hành từng đánh bại chính nhà Tống.

Với lợi thế địa lý đó, Lý Thường Kiệt quyết định chọn vùng Như Nguyệt đặt đại binh và xây công sự phòng ngự, chọn vùng Lục Đầu – Bạch Đằng làm nơi hoạt động của thủy quân, hai nơi gần nhau, có thể tùy nghi tương trợ, hợp lực. Mục đích là để quân Quách Quỳ không đến được Thăng Long, lại không để thủy quân Tống hợp lực được với chủ lực bộ binh.

Phía bờ Nam sông Cầu mà trọng tâm là vùng Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt cho xây đắp đất cao như tường thành, lại đóng cọc tre nhiều tầng để làm rào chắn, lại có đội chiến thuyền sẵn sàng tấn công khi quân Tống định vượt sông, chắc chăn vô cùng.

Từ giờ, quân Đại Việt chỉ cần ngồi yên dưỡng sức, trờ quân Tống chui đầu vào tử địa.

Phía Đại Việt đã sẵn sàng. Phía nhà Tống cũng không thể không hành quân. Cuộc chiến bắt đầu.

… Mời bạn đọc đón xem ở Đòi lại Quảng Nguyên – phần V: Nam Quốc Sơn Hà

Nguyên văn tấu chương dâng kế kháng Tống của Lý Thường Kiệt:

Ngày 25 tháng 11 [1076]
Lý Thượng Cát tâu lên với Lý Càn Đức:
– Chủ lực [Tống] là bộ binh. Quách Quỳ và Triệu Tiết đều là tướng giữ biên phía Bắc, quen với quân kỵ [binh] vùng cao nguyên và sa mạc. 20 năm về trước, sở dĩ Địch Thanh thắng Nùng Trí Cao ở phía nam ải Côn Lôn, chính là nhờ kị binh đưa từ miền Bắc xuống, bất ngờ xuất kích ở chỗ đất bằng rồi đánh kẹp vào hai bên quân Trí Cao. Thấy mình thua vì thiếu ngựa, cho nên Trí Cao đã có ý chạy về đạo Đặc Ma tìm mua ngựa. Vì hai lẽ ấy, lần này, Quách Quỳ đã đem theo một vạn ngựa. Đại binh sẽ kéo xuống, tập trung tại Ung Châu, phân-phối ra các trại trên đường thông-lộ sang Quảng Nguyên, Lạng Châu, Tô Mậu và Vĩnh An. Rồi hai cánh đánh vào Quảng Nguyên và Vĩnh An để chắn đường quân ta tập-hậu. Xong, sẽ đưa đại-quân theo đường chính vào Lạng Châu, qua các sông Đào Hoa [sông Thương], sông Nam Định [sông Cầu], sông Lô [sông Hồng], đến tận kinh thành.
Phần tinh-nhuệ quân Tống là kị binh, kị binh là quân xung-phong chọc thẳng hàng ngũ địch, dẫn đường cho bộ binh. Kị binh lại là “kỳ binh”, nghĩa là quân đánh những chỗ bất ngờ. Dùng ngựa chạy nhanh, và qua những gai gốc, đá sỏi dễ, kị binh có thể, lúc vướng chỗ này, chạy quanh
chỗ khác, để bọc hai bên hông quân địch. Nhưng muốn lợi-dụng kị binh để phá địch, thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm-trở, tới chỗ bằng, để cho ngựa xông-xáo dễ-dàng.
Bên ta [Đại Việt] thì thiện-chiến về voi. Trong trận Ung Châu, ta đã đem voi theo được, huống chi trên trận-địa nước nhà. Thế thủ của ta lại dựa vào sông núi, các đèo hiểm-trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào Lạng Châu, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý
傕履 [trên
đường Lạng Sơn đến Đồng Mỏ], vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc Ôn Châu. Rồi phải qua dãy núi đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu [ải Chi Lăng]. Đèo-ải tuy hiểm, nhưng có thể dùng kị binh hoặc vượt qua, hoặc len lỏi qua rừng để tránh. Còn sông sâu rộng, thì ngựa khó lòng qua nổi. Phòng thủ sông khá dễ, sai đóng cọc và dùng rào giậu ở bờ Nam, cũng đủ ngăn quân địch. Vả chăng thủy binh ta, từ đời Ngô Vương [Ngô Quyền] đã mạnh. Thế sông lại rất tiện cho thủy chiến. Sáu nhánh sông chảy về Vạn Xuân [Vạn Kiếp]. Đó là căn cứ tự-nhiên của thủy quân ta. Hoặc phải ra cửa Bạch Đằng chắn quân thủy địch, hoặc phải vào sông Đào Hoa, hoặc phải vào sông Nam-Định, hoặc phải sông Thiên Đức [sông Đuống], để chắn
địch qua sông, ta chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Càn Đức khen [ Lý Thường Kiệt] sáng suốt.

Trích: Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.